Nước có mức độ công nghiệp hóa cao và nhanh?

Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là nhiệm vụ tất yếu của nước ta hiện nay. Học hỏi kinh nghiệm của các nước đi trước và thành công trong quá trình CNH, HĐH sẽ có thể rút ra những khuyến nghị hữu ích cho mô hình phát triển công nghiệp của Việt Nam trong bối cảnh mới, nhất là trong quan hệ giữa hai nước với nhiệm vụ 'đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế gắn với kinh tế tri thức. Ngoài ra, bài viết đề xuất một số chỉ tiêu đánh giá nước công nghiệp.

7459e509369c7263f195ac42d386ceda

1. Nước có mức độ công nghiệp hóa cao và nhanh

Nước có mức độ công nghiệp hóa cao và nhanh là Hàn Quốc.

2. Kinh nghiệm công nghiệp hóa của Hàn Quốc

Hàn Quốc bắt đầu quá trình công nghiệp hóa và phát triển kinh tế từ đầu những năm 1960 với nền tảng công nghiệp quy mô nhỏ, trình độ công nghệ và vốn đầu tư thấp. Đầu những năm 1960, Hàn Quốc vẫn là một nước phụ thuộc vào viện trợ với thu nhập bình quân đầu người dưới 100 USD, thấp hơn một số nước châu Phi (như Ghana và Kenya) và Mỹ Latinh. Cùng với Đài Loan, cho đến nay, Hàn Quốc là một trong số ít nước đã thành công trong việc chuyển từ một nền kinh tế nghèo nàn sang một nước công nghiệp ngang tầm các nền kinh tế tiên tiến bậc nhất của OECD [1] .

Trong ba thập kỷ liên tiếp, xuất khẩu của Hàn Quốc tăng trưởng bình quân 20%/năm; Năm 2010, tổng giá trị xuất khẩu chiếm 46% GDP, đạt 466,4 tỷ USD, duy trì cán cân thương mại ở mức 41,7 tỷ USD, là nền kinh tế lớn thứ 13 thế giới và đứng thứ 7 về xuất khẩu. khẳng định trình độ và quy mô phát triển rất cao của họ: công nghiệp đóng tàu (đứng thứ nhất thế giới về sản lượng); thiết bị bán dẫn DRAM (dẫn đầu thế giới về sản lượng); điện tử (thứ 3 thế giới về sản lượng), ô tô, công nghiệp thép (thứ 5 thế giới về sản lượng). Theo nghiên cứu của GS Siwook Lee (2013), Đại học Myongji, nếu Đan Mạch và Ireland mất 114 năm, Pháp mất 104 năm, Đức mất 68 năm, Hoa Kỳ mất 54 năm... để hoàn thành công nghiệp hóa, thì quá trình này mất ở Hàn Quốc chỉ trong 19 năm.

Nhiều nghiên cứu đã phân tích nguyên nhân thành công của quá trình công nghiệp hóa ở Hàn Quốc; Hầu hết tin rằng đó là một quá trình phát triển ngoại sinh với xuất khẩu hiệu quả và thương mại quốc tế đã thúc đẩy hiệu ứng dây chuyền của tri thức và công nghệ đối với nền kinh tế. Tuy nhiên, một trong những nguyên nhân của toàn bộ quá trình này được cho là vai trò tích cực của chính phủ trong việc hỗ trợ và thúc đẩy quá trình tích lũy vốn con người.

Quá trình công nghiệp hóa của Hàn Quốc trải qua một số giai đoạn như sau: giai đoạn chịu sự chiếm đóng của Nhật Bản (1910-1945) tập trung sản xuất nguyên vật liệu thô xuất khẩu sang Nhật Bản, các ngành công nghiệp chính đều sở hữu bởi người Nhật; giai đoạn tái thiết (1945-1961) thực hiện chính sách công nghiệp thay thế nhập khẩu trong bối cảnh dựa chủ yếu vào nguồn lực viện trợ; giai đoạn phát triển kinh tế (1961-1980) thực hiện chính sách công nghiệp hướng về xuất khẩu với sự hình thành các tập đoàn công nghiệp nặng và hóa chất trong những năm 70; giai đoạn ổn định (1980 đến nay) thực hiện chính sách tự do hóa kinh tế và thúc đẩy kinh tế tri thức với trọng tâm thúc đẩy công nghệ chất lượng cao, công nghệ thông tin từ những năm 90.

Chính sách công nghiệp của Hàn Quốc, trên cả hai khía cạnh xây dựng và thực thi, đều có tính chất tập trung rất cao với vai trò can thiệp mạnh mẽ của khu vực nhà nước. Bộ Kế hoạch đầu tư của Hàn Quốc (ECB-Economic Planning Board), khác với nhiều quốc gia trên thế giới, vừa hoạch định chính sách vừa kiểm soát ngân sách. Giai đoạn đầu công nghiệp hóa, khu vực tư nhân được hỗ trợ tối đa về tín dụng và ngoại hối. Khác với trường hợp Nhật Bản thành lập một số ngân hàng đặc biệt để hỗ trợ sản xuất và xuất khẩu, tất cả các ngân hàng ở Hàn Quốc đều là ngân hàng quốc doanh đến tận năm 1983 và những ngân hàng đã cổ phần hóa trong những năm 1990 vẫn bị kiểm soát bởi Chính phủ; và vì vậy, tín dụng ưu đãi theo chỉ định của Chính phủ rất phổ biến.

Các tập đoàn nhà nước lớn được thành lập để đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa. Một ví dụ điển hình là việc thành lập Công ty Thép Nhà nước Pohang (Posco), nhà sản xuất thép lớn thứ 2 trên thế giới. Thông qua Ngân hàng Phát triển Hàn Quốc thuộc sở hữu nhà nước, chính phủ cũng quốc hữu hóa hoặc trở thành cổ đông lớn của nhiều công ty trong giai đoạn tái cấu trúc ngành sản xuất để đảm bảo theo đuổi các mục tiêu công nghiệp hóa. Ở những lĩnh vực mà khu vực công không thuận lợi tham gia, chính phủ áp dụng một loạt chính sách, bao gồm hỗ trợ và trừng phạt, để khuyến khích các công ty tư nhân đạt được các mục tiêu nghề nghiệp đầy tham vọng. Khi Hyundai lần đầu tiên tham gia vào thị trường đóng tàu toàn cầu, công ty không có kế hoạch xây dựng một cầu cảng quy mô lớn cho ngành công nghiệp đóng tàu hiện đại. Chính phủ Hàn Quốc đã đặt ra các điều kiện: nếu Hyundai không tham gia sẽ không nhận được tín dụng ưu đãi hoặc ngoại tệ; Nếu tham gia, họ sẽ được Nhà nước bảo hộ và hỗ trợ mua lại sản phẩm trong giai đoạn đầu của quá trình sản xuất.

Mặc dù Hàn Quốc cũng đã hỗ trợ các nhà đầu tư từ trước những năm 90 của thế kỷ trước nhưng hỗ trợ có chọn lọc, tập trung vào một số ngành và có thời hạn nhất định để phát triển một số ngành sản xuất phục vụ xuất khẩu. Những ngành công nghiệp ưu tiên này trở thành đầu tàu tăng trưởng và thúc đẩy các ngành công nghiệp khác. Mô hình này không phải không có vấn đề, tuy nhiên, điểm mạnh của Hàn Quốc là các ưu đãi không làm cạn kiệt ngân sách nhà nước.

Cùng với tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế, tốc độ tăng thu nhập bình quân đầu người cũng rất cao. Kết quả là chỉ trong vòng 5 thập kỷ, thu nhập bình quân đầu người của Hàn Quốc đã tăng gần 30 lần (GNP[2] tính theo PPP[3] năm 1965 là 710 USD/người thì đến năm 1965 đã tăng lên gần 20.000 USD/người).

Quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng hiện đại của Hàn Quốc cũng chứng tỏ sự tăng trưởng thần kỳ của quốc gia Đông Á này: từ một nước mà tỷ trọng nông nghiệp là 61% năm 1960, đã phát triển lên 3,6% năm 2009 và tăng tỷ trọng nông nghiệp. công nghiệp và dịch vụ lần lượt từ 10% lên 39,6% và từ 28% lên 57%. Nếu như năm 1950 chỉ có 21% dân số sống ở đô thị thì đến năm 1975 con số này đã tăng hơn gấp đôi, lên tới 48% và đến năm 2009 số người sống ở đô thị là hơn 81,5% và Hàn Quốc được coi là một trong số các quốc gia đô thị hóa nhất trên thế giới (63% ở Nhật Bản và chỉ 39% ở Trung Quốc).

Tỷ lệ dân số thuộc diện nghèo giảm nhanh từ 48,4% năm 1965 xuống còn 10,5% năm 1990 và không còn dân số sống dưới 2 USD/ngày. Hàn Quốc thành công trong chiến lược xóa đói giảm nghèo là do chính phủ có chính sách tốt để cải thiện mạng lưới an sinh xã hội, cả chính phủ và người dân đều coi trọng nguồn vốn con người, bên cạnh đó chính sách kế hoạch hóa gia đình rất hiệu quả.

Nhóm chỉ số chăm sóc sức khỏe và tuổi thọ trung bình được cải thiện đáng kể, do người dân Hàn Quốc hiện được hưởng hệ thống chăm sóc sức khỏe tương tự như các nước công nghiệp lớn khác như Mỹ, Anh và Mỹ. năm 1960, khi các nước công nghiệp phát triển đạt tuổi thọ trung bình khoảng 70 tuổi thì người Hàn Quốc chỉ có tuổi thọ dưới 54 tuổi. Năm 2009, tuổi thọ của người Hàn Quốc đã tăng lên 81 tuổi, đối với nữ là 8 và nam là 74,6. Các chỉ số y tế khác cũng cho thấy sự tiến bộ tương tự, chẳng hạn tỷ lệ tử vong ở trẻ sơ sinh giảm từ 9% số ca sinh thành công năm 1960 xuống còn 0,5% năm 2009.

Chính phủ Hàn Quốc coi trọng phát triển giáo dục, coi giáo dục là chìa khóa dẫn đến thành công thông qua các chính sách ban hành chính sách giáo dục miễn phí và bắt buộc cho đến hết cấp trung học cơ sở. Theo khảo sát năm 2007 của OECD, 100% trẻ em trong độ tuổi đi học và 97% thanh niên Hàn Quốc hoàn thành bậc trung học, và khoảng 70% tiếp tục học lên cao hơn. Ngoài ra, chính phủ cũng đang đầu tư mạnh cho giáo dục, dành 21% ngân sách nhà nước cho giáo dục, so với 4% ở Anh và 2% ở Mỹ. Do đó, giáo dục khoa học ở Hàn Quốc được Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD) đánh giá và xếp thứ 3 trên thế giới, thứ 2 về toán học và văn học, và thứ nhất về tư duy giải quyết vấn đề.

Nhờ tăng trưởng nhanh, cơ hội việc làm cho người dân cũng tăng lên, bằng chứng là tỷ lệ thất nghiệp giảm từ 5,2% năm 1980 xuống còn 2,05% năm 1996. Sau cuộc khủng hoảng tài chính khu vực, do yêu cầu chuyển dịch cơ cấu sản xuất, doanh nghiệp nên tỷ lệ thất nghiệp gia tăng lên 6,95% vào năm 1998 nhưng đã giảm xuống còn 3,2% vào năm 2008.

Cùng với việc giảm tỷ lệ thất nghiệp, điều kiện làm việc của người lao động cũng được cải thiện.Điều kiện làm việc của người lao động được cải thiện rõ rệt nhờ hệ thống tiền lương và thời gian làm việc. Số giờ làm việc trung bình năm 2005 là 46,9 giờ, giảm 2,4 giờ so với năm 2000 và 12 giờ so với năm 1965.

Trong gần 50 năm qua, Hàn Quốc đã lựa chọn mô hình kết hợp giữa công nghiệp hóa và công nghiệp hóa, tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội trong phân phối thu nhập. . Đặc điểm cơ bản của mô hình này được thể hiện rõ nét trong các chính sách mà chính phủ Hàn Quốc đang thực hiện trên các lĩnh vực kinh tế, xã hội nhằm tạo ra sự phát triển đồng bộ của hai lĩnh vực này.

Sự phát triển nhanh chóng và có định hướng tốt của Hàn Quốc là kết quả của sự kết hợp độc đáo giữa các yếu tố kinh tế và xã hội: tỷ lệ biết chữ và dân số đi học cao; thực hiện cải cách kinh tế (bao gồm cả cải cách ruộng đất trong những năm 1960) để phát triển các ngành công nghiệp thâm dụng lao động, định hướng xuất khẩu; loại bỏ dần các hạn chế nhập khẩu; đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng giao thông, hết sức linh hoạt trong điều hành kinh tế; phối hợp chặt chẽ giữa khu vực công và khu vực tư nhân; quyền tự chủ của hệ thống ngân hàng và phát triển thị trường tài chính hiệu quả.

Đồng thời, chính phủ cũng ưu tiên cao hơn cho khoa học và công nghệ, giáo dục và ngân sách giáo dục công cũng ưu tiên cao hơn cho giáo dục cơ bản. Nhờ vậy, Hàn Quốc đã làm khá tốt việc phát triển nguồn nhân lực và hệ số Gini về giáo dục hay bất bình đẳng trong giáo dục đã giảm nhanh chóng. Sự kết hợp này làm cho đầu tư vào tài sản vật chất và con người trở nên cân bằng hơn, bất bình đẳng thấp hơn nhiều so với các nước đang phát triển và tăng trưởng thực sự gắn liền với xóa đói giảm nghèo. Kể từ năm 1980, Hàn Quốc đã duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế tương đối cao, một phần là do khu vực công đã có thể hỗ trợ đồng thời đầu tư vào hình thành vốn vật chất và con người trong nhiều năm. . Các chỉ số xã hội của Hàn Quốc tốt hơn nhiều so với các nước đang phát triển khác. Hàn Quốc là quốc gia đầu tiên điều chỉnh cơ cấu chi tiêu cho giáo dục phổ thông.

Thành công của Hàn Quốc còn thể hiện ở khía cạnh cải cách hành chính nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế. Chính phủ Hàn Quốc đã chuyển từ chính phủ “quân sự” sang chính phủ “dân sự” với sự tham gia tích cực của người dân vào quá trình quản lý. Cải cách hành chính của Hàn Quốc gắn liền với hai điểm mấu chốt là trách nhiệm giải trình và tính minh bạch. Hàn Quốc đề cao vai trò chủ thể và trách nhiệm cá nhân trong quá trình quản lý nhà nước. Đây được xem là động lực cho những quyết định có trách nhiệm và vì con người để xã hội phát triển.

Link nội dung: https://mozart.edu.vn/quoc-gia-nao-hien-nay-co-muc-do-cong-nghiep-hoa-cao-va-nhanh-a29178.html