The POET Magazine hương dẫn soạn bài Bình Ngô Đại Cáo (Nguyễn Trãi) giúp học sinh nắm rõ nội dung của tác phẩm “vô song” của văn học nước nhà. Bài cáo chính là thông báo kết thúc cuộc chiến chống giặc Minh, là tuyên ngôn đanh thép cho chủ quyền và sự bình đẳng của Đại Việt với triều đại phương Bắc.
Soạn văn 10 Bình Ngô Đại Cáo theo chương trình Chân trời sáng tạo giúp học sinh hiểu rõ nội dung trong bài cáo. Thông qua vấn đề gợi mở, bạn biết thêm về tội ác của giặc Minh xâm lược, cùng ý chí kiên cường chống giặc của ông cha ta.
Một số tác phẩm văn học Việt Nam gắn với sự kiện trọng đại và thể hiện tình yêu đất nước sâu sắc gồm:
Tác giả muốn dùng quan niệm về nhân nghĩa làm tiền đề cho toàn bộ nội dung bài cáo. Quá đó, khẳng định cuộc khởi nghĩa Lam Sơn là chính nghĩa, đấu tranh cho lẽ phải.
Những tội ác giặc Minh gây ra trên đất nước ta được tác giả đưa ra trong đoạn 2 gồm:
Những ý này thể hiện tội ác đáng lên án, sự tham lam và tàn bạo của giặc Minh, gây ra mất mát, đau thương cho dân tộc ta.
Hình dung đoạn 3a, diễn biến tiếp theo sẽ là cuộc khởi nghĩa diễn ra thành công vì dân ta đoàn kết, dùng sức mạnh dân tộc “Lấy ít địch nhiều”. Sự kiên trì, mưu lược giỏi và kế đánh tài tình là những yếu tố góp phần thắng lợi.
Sự quyết tâm của dân tộc ta chắc chắn thành công, giành lại quyền làm chủ đất nước và đuổi giặc ngoại xâm ra khỏi nước ta.
Đây là không khí hào hùng, hứng khởi. Có thể thấy, chắc chắn khí thế chiến thắng của nghĩa quân đã nhân rộng tại các trận đánh. Dân tộc ta càng đánh càng hăng, trút hết căm phẫn suốt 20 năm dài dưới ách thống trị.
So với các đoạn trên, giọng nghị luận đoạn này có tính chất tổng kết toàn bộ nội dung đã đề cập trước đó. Đây cũng là đoạn mở ra hi vọng cho đất nước sau khi thành công đánh đuổi giặc ngoại xâm.
Hoàn cảnh ra đời của bài cáo là sau khi nghĩa quân Lam Sơn đánh giặc Minh thắng lợi. Mục đích viết bài cáo là khẳng định trước toàn thể nhân dân cuộc kháng chiến chống giặc Minh đã thắng lợi hoàn toàn, khích lệ tinh thần chiến đấu bảo vệ dân tộc.
Dấu hiệu nhận diện Bình Ngô Đại Cáo là văn bản nghị luận chính là văn bản này thuộc thể cáo.
Đồng ý với nhận định.
Bình Ngô Đại Cáo chính là bản tuyên ngôn độc lập của dân tộc, điều này được khẳng định rõ ngay từ phần mở đầu. Văn bản này được ra đời với mục đích chính là tuyên bố rộng rãi đến toàn thể nhân dân về cuộc kháng chiến chống quân Minh đã thắng lợi hoàn toàn. Qua đó, khẳng định nước ta đã giành được độc lập, từ nay đứng ở vị thế ngang hàng các quốc gia khác, không phải chịu sự thống trị của bất cứ thế lực nào.
Tính chất của tuyên ngôn thể hiện rõ ngay phần mở đầu của văn bản qua các nội dung khẳng định Việt Nam là nước văn hiến, có truyền thống lâu đời:
“Như nước Đại Việt ta từ trước
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu
Núi sông bờ cõi đã chia
Phong tục Bắc Nam cũng khác
Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời xây nền độc lập
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên xưng đế một phương.”
“Nhân nghĩa” trong câu mở đầu: Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân.
Xuyên suốt nội dung bài cáo luôn xuất hiện tư tưởng “Quân điếu phạt trước lo trừ bạo”.
Luận điểm chính:
Cách sử dụng lí lẽ và bằng chứng của tác giả trong phần 1: Lý lẽ và bằng chứng trong phần này đi liền với nhau, bằng chứng nêu lên ngay sau và minh chứng cho lí lẽ.
Lí lẽ Bằng chứng Đại Việt là một nước văn hiến, có lịch sử lâu đời. Bằng chứng về các triều đại trong lịch sử Việt Nam và các anh hùng hào kiệt đã bảo vệ đất nước khỏi giặc ngoại xâm. Quân cuồng Minh đã thừa cơ gây họa Nướng dân đen… Tan tác cả nghề canh cửi
Sự kết hợp giữ tự sự với nghị luận trong phần 3b: Tự sự được dùng để làm bằng chứng cho nghị luận.
Nghị luận Tự sự Khẳng định sự nhân nghĩa của nghĩa quân Lam Sơn là yếu tố quan trọng để giành chiến thắng. Kể lại các trận thắng của nghĩa quân Lam Sơn và sự thất bại của quân Minh.Các thủ pháp nghệ thuật và tác dụng cụ thể gồm:
Tất cả các biện pháp này tạo nên sự biểu cảm, tăng tính thuyết phục, giúp bài cáo hấp dẫn hơn. Dù thuộc thể cáo, nghị luận, nhưng tác phẩm không khô khan, thay vào đó rất hợp tình, hợp lý.
Sự thay đổi của giọng điệu nghị luận của bài cáo đi qua từng giai đoạn:
Việc xem Bình Ngô Đại Cáo như là “thiên cổ hùng văn” hợp lý vì:
Bình Ngô Đại Cáo là bản cáo lớn, khẳng định chiến thắng oanh liệt của quân dân ta trước giặc xâm lược. Trả lời câu hỏi theo giáo trình Kết nối tri thức giúp bạn hiểu hơn về tác phẩm này.
Soạn bài Bình Ngô Đại Cáo lớp 10 Kết nối tri thức
Áng thiên cổ hùng văn mà em đã từng đọc là “Hịch tướng sĩ” của Trần Quốc Tuấn và “Nam quốc sơn hà” của Lý Thường Kiệt.
Hịch tướng sĩ từ xưa đã được xem là một “thiên cổ hùng văn” bất hủ của dân tộc. Bài hịch là sự kết tinh của ý chí và sức mạnh quật cường của dân tộc qua mấy trăm năm lịch sử. Qua bài hịch, Trần Quốc Tuấn đã thể hiện mạnh mẽ lòng yêu nước thiết tha và căm thù giặc sâu sắc của vị chủ tướng một lòng vì nướng vì dân.
Thành công đầu tiên của Hịch tướng sĩ là chất giọng hùng hồn, thuyết phục hiếm có. Chất hùng văn của Hịch tướng sĩ được tạo nên từ nghệ thuật trữ tình hùng biện và tình cảm mãnh liệt, nồng cháy trong tim người anh hùng dân tộc. Đó là ngọn lửa của tình yêu nước thiết tha và ý chí quyết tâm chống giặc cứu nước. Tình cảm sục sôi và nhiệt tình yêu nước cháy bỏng, ý chí quyết chiến quyết thắng giặc thù làm nên chất nhân văn cao đẹp của bài hịch.
Mở đầu bài hịch, vị chủ tướng nêu cao gương sáng các anh hùng nghĩa sĩ đã quên mình vì chúa (Kỉ Tín, Do Vu, Dự Nhượng, Thân Khoái, Kính Đức, Cảo Khanh) hay anh dũng chống giặc hi sinh vì nước (Nguyễn Văn Lập, Xích Tu Tư). Đó là những tấm gương tiêu biểu, được lưu truyền trong nhân gian, không ai mà không biết nhưng dưới lời văn của Trần Quốc Tuấn lại được nâng cao lên nhiều lần, trở thành điều tâm niệm mà mỗi tướng sĩ nên có. Tình yêu nước theo vị chủ tướng, trước hết là phải biết sống anh hùng và lập nên những chiến công hiển hách, lưu danh thiên cổ. Lời văn ngắn gọn, súc tích nhưng đã đánh động được nỗi lòng của các tướng sĩ khiến họ biết tự nhìn lại mình. Tình yêu nước của Trần Quốc Tuấn được bộc lộ rõ ràng hơn khi ông nói về sự ngang ngược và tội ác của quân giặc. Ông đã lột tả bản chất tham lam, hống hách, tàn bạo của đoàn quân xâm lược: Đi lại nghênh ngang ngoài đường, uốn lưỡi cú diều mà sỉ mắng triều đình, đem thân dê chó mà bắt nạt tể phụ, đòi ngọc lụa, thu bạc vàng. Thái độ của Trần Quốc Tuấn vừa tủi nhục, vừa xót xa căm giận, khinh bỉ, coi chúng như những loài cầm thú: cú diều, dê chó, hổ đói, lột tả bản chất tham lam, tàn bạo của chúng.
Trần Quốc Tuấn đã thấu suốt dã tâm của tên giặc, nhận thức rõ hiểm họa của tổ quốc, nguy cơ của sự bại vong. Lời lẽ chân tình, thống thiết, thấu tận nhân tâm khiến ta càng kính trọng hơn người anh hùng đã hết lòng vì nước quên mình. Bởi lo thế giặc mạnh, quân giặc hung bạo, bất nhân còn thế nước lại yếu, tướng sĩ vô tâm, cái nguy cơ mất nước hiện hữu lên trước mắt khiến cho vị chủ tướng “tới bữa quên ăn, nửa đêm vỗ gối, ruột đau như cắt, nước mắt đầm đìa”, ngày đêm suy nghĩ cách phá giặc để bảo vệ non sông. Trong khi, quân giặc đang giày xéo trên quê hương, muôn dân bị chúng cướp bóc, sát hại thảm thiết. Nỗi căm tức dâng lên tột cùng, uất nghẹn: “căm tức chưa xả thịt lột da, nuốt gan uống máu quân thù”. Vì đất nước “dẫu cho trăm thân này phơi ngoài nội cỏ, nghìn xác này gói trong da ngựa”, ông cũng vùi lòng. Với bút pháp khoa trương, đậm chất ước lệ, giọng văn nghẹn ngào, thống thiết, hào sảng, phù hợp với ngôn ngữ hùng biện của thể hịch văn, bài hịch có sức ngân vang lớn. Đoạn văn đã thể hiện đậm nét trạng thái sục sôi, hận thù bỏng rát của một trái tim vĩ đại, chất chứa cảm xúc lớn với vận mệnh đất nước, sự tồn vong của dân tộc, số phận của nhân dân. Tất cả những trạng thái cảm xúc ấy đều được đẩy tới đỉnh điểm. Chưa bao giờ trong văn học Việt Nam, lòng căm thù giặc và nỗi đau xót trước vận mệnh dân tộc lại được biểu hiện sâu sắc, mãnh liệt và xúc động lòng người đến thế.
Từ căm thù cháy bỏng đến hành động giết giặc cứu nước là tất yếu phải được đặt lên hàng đầu, thà chết chứ không chịu khuất phục. Đó là khí phách của một dân tộc anh hùng. Hơn ai hết, Trần Quốc Tuấn hiểu rõ ý chí quyết chiến quyết thắng, sẵn sàng xả thân vì nước của vị thống soái toàn quân là yếu tố rất quan trọng, nhưng chưa đủ để làm nên chiến thắng, cần có một sức mạnh tổng hợp. Sức mạnh ấy phải được tạo nên từ sự đồng lòng nhất trí, từ ý chí quyết chiến, quyết thắng giặc thù của cả dân tộc. Trong khi tướng sĩ vẫn còn đang mải lo cho bản thân, ham mê lạc thú mà quên đi nhiệm vụ bảo vệ nước nhà. Ông đã rất đau xót và nghiêm khắc khi nhắc nhở tướng lĩnh của mình. Đầu tiên ông nhắc lại mối ân tình của mình với tướng sĩ: không có áo mặc thì ta cho áo, không có ăn thì ta cho cơm, quan nhỏ thì ta thăng chức, lương ít thì ta cấp bổng, đi thủy thì ta cho thuyền, đi bộ thì ta cho ngựa. Ông còn nhắc lại mối giao hòa chủ tướng thắm thiết như phụ tử cùng sống chết trong mặc, vui vẻ khi bình yên. Ông cũng nghiêm khắc chỉ trích lối sống thờ ơ, hèn nhục của tướng sĩ khi quân giặc giày xéo quê hương: thấy tủi nhục mà không biết lo, thấy nước nhục mà không biết thẹn…, không biết căm,…
Mỗi thú vui của tướng sĩ không có gì là xấu nhưng nó không hợp với thời cuộc. Đất nước đang trong cảnh nước sôi lửa bỏng, vận mệnh dân tộc đang lâm nguy, kẻ thù thiện chiến và hùng mạnh, mà tướng sĩ vẫn thờ ơ tức là tự đẩy mình vào diệt vong, muôn đời chịu nhục. Bằng lập luận chặt chẽ, lời lẽ sắc bén, sử dụng nghệ thuật đối lập, cấu trúc câu trùng điệp tạo khí thế hùng hồn, từng lời từng chữ như chảy ra từ trong tim tha thiết vô cùng, Trần Quốc Tuấn đã thức tỉnh toàn quân cầm gươm chống giặc. Đó không phải là một mệnh lệnh cứng nhắc mà là một lời tâm tình rưng rưng nước mắt. Tình yêu thương chân thành, tha thiết dành cho tướng sĩ của Trần Quốc Tuấn đều được xuất phát từ trái tim nhân hậu, từ lòng yêu nước lớn lao. Không những vạch rõ yếu kém của tướng sĩ, ông còn chỉ ra cái nguy cơ dẫn đến thảm kịch của đất nước, của gia đình, của cá nhân và cách để hóa giải với nguy cơ ấy. Với bản lĩnh của một vị tướng kiệt xuất có tầm nhìn xa trông rộng và niềm tin tất thắng của dân tộc, ông hoàn toàn tin tưởng vào thắng lợi nếu mỗi binh sĩ đều hết lòng xả thân chống giặc cứu nước. Đó cũng là một lời hứa đinh ninh trước trời đất của vị chủ tướng để huy động được toàn bộ sức mạnh dân tộc trong cuộc chiến với kẻ thù xâm lược.
Hịch tướng sĩ của Trần Quốc Tuấn đã phản ánh tinh thần yêu nước nồng nàn, lòng căm thù giặc sâu sắc, tinh thần quyết chiến, quyết thắng kẻ thù xâm lược của dân tộc ta.
Hịch tướng sĩ là một áng văn nghị luận mẫu mực, bất hủ với kết cấu chặt chẽ, lập luận sắc sảo, lí lẽ sắc bén, dẫn chứng phong phú, sinh động và lời văn khi hùng hồn đanh thép, khi thống thiết chân thành có sức lôi cuốn và sức thuyết phục mạnh mẽ. Với bài hịch ngắn gọn, súc tích, Trần Quốc Tuấn đã viết nên một bản hùng ca vang mãi đến muôn đời.
Cuối năm 1076, quân Tống kéo sang xâm lược nước ta. Dưới quyền thống lĩnh của Thái úy Lý Thường Kiệt, quân Nam chặn giặc tại phòng tuyến sông Cầu, và đến tháng 3 năm 1077 đánh tan quân giặc. Truyền thuyết kể rằng, để khích lệ ý chí chiến đấu của quân ta và làm tan rã tinh thần quân giặc, Lý Thường Kiệt cho đọc bài thơ sau đây giữa đêm khuya trên bờ sông Cầu.
Mở đầu là câu thơ khẳng định quyền độc lập tự chủ của dân tộc:
Nam quốc sơn hà Nam đế cư
(Sông núi nước Nam, vua Nam ở)
Nam quốc là nước Nam, xưng là quốc để xóa sạch ấn tượng bị trị trong thời kỳ Bắc thuộc. Từ thế kỉ X, Ngô Quyền đã đánh đuổi quân Nam Hán trên sông Bạch Đằng, thiết lập một nhà nước độc lập, tự chủ, nhưng bọn phong kiến phương Bắc vẫn xem đất nước ta là một quận, huyện thuộc Trung Quốc, như đã sắc phong Đinh Bộ Lĩnh làm Giao Chỉ quận vương. Cho nên vào thời Lí, việc xưng Nam quốc, Nam đế có ý nghĩa lịch sử đặc biệt.
Câu thơ nhấn mạnh một chân lí đơn giản, hiển nhiên nhưng đầy chiều sâu lịch sử sau mười thế kỉ đấu tranh của dân tộc ta, thẻ hiện tinh thần độc lập tự chủ, tinh thần bình đẳng dân tộc.
Tiệt nhiên định phận tại thiên thư.
(Biên giới rõ ràng có ghi tại sách trời).
Tiệt nhiên là rành rành, có đạo lí chính đáng không thể di dịch được; định phận là danh phận đã được xếp đặt, không thể xáo trộn được. Chủ quyền của vua Nam trên đất nước là việc có ghi sẵn trong sách trời. Thiên thư định phận cho nước Nam có bờ cõi riêng, đó là điều tiệt nhiên, là chân lí hiển nhiên.
Nếu câu thơ đầu nhấn mạnh chân lí do con người quy định thì câu thứ hai mang tính chất thần linh chủ nghĩa, một niềm tin tuyệt đối trong thời phong kiến, ý thơ như báo trước thế thắng bại giữa ta và địch. Ta sẽ thắng chẳng những do tài sức chính mình mà còn do ý trời. Địch sẽ bại vì hành động phi nghĩa của chúng.
Chân lí Nam quốc sơn hà được củng cố thêm bằng sức mạnh siêu nhiên thiên thư định phận, nhằm khẳng định niềm tin chiến thắng của ta.
Bài thơ là quyết tâm bảo vệ đất nước, khẳng định thất bại tất yếu của địch:
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm?
(Sao mà bọn giặc lại tới xâm phạm?)
“Như hà” là làm sao, “nghịch” là trái ngược, “lỗ” là bọn mọi rợ. Đây là một câu hỏi bao hàm thái độ vừa ngạc nhiên, vừa khinh bỉ. Ngạc nhiên vì chúng tự xưng là thiên triều sao lại làm trái mệnh trời; khinh bỉ vì chúng tự phụ là một nước có văn hiến hàng đầu, là Trung Hoa, tinh hoa của mọi dân tộc, sao lại hành động như kẻ mọi rợ, ỷ mạnh hiếp yếu. Tư thế của ta vững vàng: ta giữ gìn biên cương, bảo vệ đất nước với đầy đủ danh phận, rõ ràng chính nghĩa. Chúng là giặc, làm trái lòng trời, làm điều càn rỡ phản nghịch. Giọng thơ hùng hồn, lời thơ dõng dạc tố cáo dã tâm của giặc, vừa sỉ vả, miệt thị bọn xâm lược với tư thế kẻ bề trên nắm lẽ phải trong tay, mắng bọn ngu xuẩn, tham lam đáng khinh miệt.
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư.
(Lũ bay hãy xem sẽ ôm lấy thất bại, hư hỏng).
Câu thơ là câu trả lời nhưng không trả lời trực tiếp mà báo trước cho chúng biết số phận thua trận tan tành không mảnh giáp của chúng. Câu thơ cuối cùng nối tiếp mạch thơ của ba câu trên. Không thông được chân lí của nhân gian, cũng không hiểu thiên lí của trời đất, dẫn quân xâm lược nước trời, chúng bay rồi chống mắt xem sự bại vong, tan tác một cách nhục nhã.
Bài thơ khẳng định quyền độc lập, tự chủ của dân tộc ta từ nghìn năm trước. Quyền độc lập, tự chủ này được phát triển cụ thể trong Bình Ngô Đại Cáo của Nguyễn Trãi *Mỗi bên hùng cứ một phương) và trong Tuyên ngôn độc lập của Chủ tịch Hồ Chí Minh (nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập). Truyền thống lịch sử ấy xác định một chân lí: dân tộc ta luôn chống ngoại xâm để bảo vệ độc lập, tự chủ trên tư thế chính nghĩa. Bọn phong kiến phương Bắc đã mười lăm lần xâm lược nước ta, gần đây là thực dân Pháp rồi đế quốc Mĩ, nhưng cuối cùng cũng thất bại, bị đánh đuổi ra khỏi bờ cõi. Quả thật tinh thần quật khởi chống xâm lược ấy được phát huy từ tinh thần “Nam quốc sơn hà Nam đế cư” vậy. Và “Nam quốc sơn hà” vừa được xem là áng thi ca đối với âm hưởng đầy hào khí, vừa được xem là bản Tuyên ngôn độc lập lần thứ nhất của dân tộc ta, trong dòng chảy lịch sử chống giặc giữ nước.
Những dòng “cáo” đậm chất nhân nghĩa xuyên suốt tác phẩm:
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo”.
Ai bảo thần nhân chịu được.”
Lấy chí nhân để thay cường bạo.”
Tâm trạng phẫn uất của tác giả trước tội ác của kẻ thù thể hiện qua những câu thơ thể hiện sự đau khổ tột cùng khi nhân dân bị hành hạ:
“Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn
Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ”.
Hoặc vừa phẫn nộ vừa đau đớn:
“Độc ác thay, trúc Nam Sơn không ghi hết tội
Dơ bẩn thay, nước Đông Hải không rửa sạch mùi”.
Căm tức trước tội ác của giặc, đau lòng trước hoàn cảnh hiện tại của nhân dân ta; trằn trọc, băn khoăn nỗi nước nhà. Họ đã đứng lên hành động, đứng lên khởi nghĩa chống lại quân thù:
“Ta đây
Núi Lam Sơn dấy nghĩa
Chốn hoang dã nương mình
Ngẫm thù lớn há đội trời chung
Căm giặc nước thề không cùng sống”.
Thiếu những hiền tài, nhân tài, không có quân sư chỉ điểm, phần thì giặc dữ, phần thì vận nước đang ở thế khó khăn, không lương thực, quân đội chưa hùng mạnh.
“Lại ngặt vì:
Tuấn kiệt như sao buổi sáng
Nhân tài như lá mùa thu
Việc bôn tẩu thiếu kẻ đỡ đần
Nơi duy ác hiếm người bàn bạc
…
Khi Linh Sơn lương hết mấy tuần
Khi Khôi Huyện quân không một đội”.
Tinh thần đồng cam cộng khổ của tướng sĩ được thể hiện qua những chi tiết, hình ảnh: Cố gắng khắc phục gian nan, đoàn kết cùng nhân dân dựng nhà, dựng ngọn cờ khởi nghĩa, tướng sĩ, nhân dân đồng lòng sẻ chia:
“Nhân dân bốn cõi một nhà, dựng cần trúc ngọn cờ phấp phới
Tướng sĩ một lòng phụ tử, hòa nước sông chén rượu ngọt ngào”.
Câu thơ “Đem đại nghĩa để thắng hung tàn” có mối liên hệ mật thiết với chủ trương “mưu phạt tâm công”, lấy lòng người để thắng sự tàn bạo.
Câu thơ “Lấy chí nhân để thay cường bạo” có mối liên hệ với tư tưởng nhân nghĩa, vì nó là biểu hiện của tư tưởng nhân nghĩa.
Hành động lật lọng, bội ước của kẻ thù sẽ dẫn đến kết cục: Thất bại thảm hại, làm trò cười cho cả thế gian, thiên hạ:
“Bí nước giặc quay mũi giáo đánh nhau”.
Chi tiết:
“Đánh một trận, sạch không kinh ngạc
Đánh hai trận tan tác chim muông”.
Chi tiết:
“Bị ta chẹn ở Lê Hoa, quân Vân Nam nghi ngờ khiếp vía mà vỡ mật.
…
Mã Kỳ, Phương Chính, cấp cho năm trăm chiếc thuyền, ra đến biển mà vẫn hồn bay phách lạc.
Vương Thông, Mã Anh, phát cho vài nghìn cỗ ngựa, về đến nước mà vẫn tim đập chân run”.
Tư thế của người phát ngôn:
Tư cách phát ngôn của Nguyễn Trãi khi viết tác phẩm: là người đại cho vua, cho những người dân nước Nam tự hào về dân tộc.
Đối tượng tác động của bài cáo: Hướng đến toàn thể nhân dân nước Nam, cũng như bọn giặc ngoại xâm lăm le cướp nước.
Mục đích viết: Nhằm khẳng định chủ quyền của đất nước và ngợi ca chiến công lừng lẫy của quân và dân ta.
Luận đề chính: Tư tưởng nhân nghĩa
Tư tưởng nhân nghĩa: Xuyên suốt và nhất quán trong tác phẩm để khẳng định giá trị lớn lao và chính nghĩa của tư tưởng này.
Từ đó dẫn đến kháng chiến thành công và Tuyên ngôn Độc lập ra đời khẳng định chủ quyền hôm nay là kết tinh của khát vọng độc lập tự do và sự đồng lòng từ vua quan, tướng sĩ, nhân dân.
Tập trung ở câu “Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân”.
Khái quát nội dung các đoạn:
Bố cục chặt chẽ, cấu trúc rõ ràng với ba phần, mỗi đoạn tương ứng với một nội dung, gắn kết với nhau tạo nên tính chỉnh thể cho tác phẩm. Cụ thể:
Lập luận có sự kết hợp giữa lý lẽ và dẫn chứng để làm cơ sở chứng minh cho luận điểm của mình. Không chỉ vậy, để tăng hiệu quả, Nguyễn Trãi còn kết hợp nhuần nhuyễn biện pháp so sánh, liệt kê,… để chỉ ra tội ác của giặc ngoại xâm và lý do của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn chính nghĩa.
Yếu tố tự sự:
Yếu tố biểu cảm trong tác phẩm này chính là yếu tố trữ tình, bộc lộ nhiều cảm xúc bằng một thứ ngôn ngữ đa thanh, những chi tiết nổi bật được tác giả sử dụng để thể hiện thái độ, cảm xúc trong bài cáo:
Người bị ép xuống biển dòng lưng mò ngọc, ngán thay cá mập thuồng luồng.
Kẻ bị đem vào núi đãi cát tìm vàng, khốn nỗi rừng sâu nước độc.
Vét sản vật, bắt chim trả, chốn chốn lưới giăng,
Nhiễu nhân dân, bẫy hươu đen, nơi nơi cạm đặt.
Tàn hại cả giống côn trùng cây cỏ.
Nheo nhóc thay kẻ góa bụa khốn cùng.
Thằng há miệng, đứa nhe răng, máu mỡ bấy no nê chưa chán;
Nay xây nhà, mai đắp đất, chân tay nào phục dịch cho vừa.
Nặng nề những phu phen,
Tan tác cả nghề canh cửi.
Độc ác thay, trúc Nam Sơn không ghi hết tội,
Dơ bẩn thay, nước Đông Hải không rửa sạch mùi.
Lẽ nào trời đất dung tha
Ai bảo thần nhân chịu được?
Về phương diện nội dung:
Trên phương diện nghệ thuật:
Ý nghĩa khái quát của Bình Ngô Đại Cáo có thể tóm lược như sau:
Thứ nhất, về luận đề chính nghĩa: Luận đề này được xây dựng dựa trên cơ sở mối quan hệ giữa 3 yếu tố: Nhân nghĩa, dân và nước:
Những quan niệm của Nguyễn Trãi trong bài Cáo về Nhân nghĩa, Dân, Nước đều xuất phát từ chính thực tiễn kế thừa phát triển của truyền thống yêu nước, phù hợp với đạo đức truyền thống và hoàn cảnh lịch sử đương thời. Những quan niệm này, so với trước, đã có nhiều biến đổi, phát triển do sự chi phối của hoàn cảnh lịch sử.
Thứ hai, vạch trần tội ác: Các nhà nghiên cứu xem đoạn văn này là một bản cáo trạng đanh thép tố cáo tội ác khủng khiếp của giặc Minh trong 20 năm trên mảnh đất Đại Việt. Để đảm bảo vừa tăng cường sức thuyết phục, vừa đạt được tính cô đọng, hàm súc của ngôn tư văn chương, Nguyễn Trãi sử dụng đan xen, kết hợp hài hòa giữa những hình ảnh mang tính chất khái quát với hình ảnh cụ thể sinh động.
Thứ ba, tổng kết quá trình kháng chiến:
Hình ảnh Lê Lợi của buổi đầu kháng chiến: Tập trung miêu tả hình ảnh Lê Lợi, Nguyễn Trãi đã khái quát trọn vẹn những phẩm chất tiêu biểu nhất của con người yêu nước ở thế kỷ XV. Những đặc điểm của con người yêu nước trong văn học thời kỳ này thường có đặc điểm sau:
Ta đây
Núi Lam Sơn dấy nghĩa
Chốn hoang dã nương mình.
Ngẫm thù lớn há đội trời chung
Căm giặc nước không thể cùng sống.
Trời thử lòng trao cho mệnh lớn
Ta gắng chí khắc phục gian nan
Nhân dân bốn cõi một nhà dựng cần trúc ngọn cờ phất phới
Tướng sĩ một lòng phụ tử hòa nước sông chén rượu ngọt ngào.
Thế trận xuất kỳ lấy yếu chống mạnh
Dùng quân mai phục lấy ít địch nhiều
Đem đại nghĩa để thắng hung tàn
Lấy chí nhân mà thay cường bạo.
Có thể nói, Lê Lợi chính là hình ảnh tiêu biểu của những con người yêu nước, dám hy sinh quên mình đứng dậy chống giặc ngoại xâm, bảo vệ độc lập tự do của dân tộc.
Miêu tả quá trình kháng chiến:
Thứ tư, tuyên bố hòa bình, xây dựng vương triều mới: Nhịp thơ dàn trải, trang trọng; khẳng định thế thịnh suy tấm yếu.
Bình Ngô Đại Cáo (Nguyễn Trãi) là bản cáo lớn gửi cho đồng bào về chiến thắng của quân dân ta trước giặc Minh xâm lược. Tác giả đã khẳng định, mỗi dân tộc có quyền bình đẳng, có văn hiến và phong tục tập quán riêng, thể hiện ý thức cao độ về độc lập dân tộc.
XEM THÊM:
- Trả lời câu hỏi Thư lại dụ Vương Thông (Nguyễn Trãi) chi tiết
- Soạn văn Bào kính cảnh giới - bài 43 ngắn gọn dễ hiểu
- Dục Thúy sơn soạn câu hỏi, câu trả lời đầy đủ
Link nội dung: https://mozart.edu.vn/soan-binh-ngo-dai-cao-lop-10-a54801.html