01/07/2024
Thân sinh Nguyễn Đình Chiểu là cụ Nguyễn Đình Huy, hiệu Dương Minh Phủ, người xã Bồ Điền, huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên, được bổ làm thư lại ở dinh tả quân Lê Văn Duyệt, sau lấy vợ thứ tên là Trương Thị Thiệt, người làng Tân Thới, huyện Bình Dương, tỉnh Gia Định, sinh được 7 người con (4 trai, 3 gái). Nguyễn Đình Chiểu là con đầu lòng của bà.
Danh nhân Nguyễn Đình Chiểu (Hoạ sỹ Hoàng Hiệp -bút danh Thanh Xuân vẽ năm 1982)
Từ thuở thơ ấu cho đến năm 11 - 12 tuổi, Nguyễn Đình Chiểu đã được sống và học tập có nề nếp bên cạnh người mẹ hiền. Ông thường được mẹ kể cho nghe nhiều chuyện cổ tích dân gian và được theo mẹ đi xem hát ở vườn ông Thượng (tức vườn Tao Đàn Thành phố Hồ Chí Minh ngày nay). Qua đó, ông đã được mẹ giáo dục về những điều thiện ác, trung nịnh, chính tà, nhân nghĩa... Năm lên 6 - 7 tuổi, ông được theo học với một ông đồ là học trò ông nghè Chiêu - môn sinh Cụ Võ Trường Toản. Việc nuôi dạy của mẹ và việc giáo dục của thầy vỡ lòng đã có ảnh hưởng lớn đến sự hình thành tư tưởng sau này của Nguyễn Đình Chiểu.
Năm 1833, Lê Văn Khôi nổi lên đánh chiếm Gia Định, Nguyễn Đình Chiểu cùng cha về Thừa Thiên và theo thầy học suốt 8 năm liền. Cuộc sống ở Huế đã giúp Nguyễn Đình Chiểu có điều kiện tiếp thu văn hóa đất kinh đô. Năm 1843, Nguyễn Đình Chiểu trở về quê mẹ và thi đậu tú tài tại Gia Định, lúc bấy giờ ông 21 tuổi, có một nhà họ Võ hứa gả con cho ông. Năm 1847, Nguyễn Đình Chiểu ra Huế học thêm để chờ khoa thi Hội vào năm Kỷ Dậu 1849. Nhưng được tin mẹ mất, ông vội vã trở về Gia Định thọ tang mẹ. Giữa đường vì quá thương khóc mẹ và vì chứng đau mắt nặng, nên ông bị mù.
Thân mù lòa, trở về nhà chịu tang mẹ, Nguyễn Đình Chiểu lại gặp phải cảnh ngộ phũ phàng, vị hôn thê bội ước vì tình cảnh gia đình sa sút... Ông đóng cửa cư tang cho đến năm 1851 mãn tang, ông mở trường dạy học và làm thuốc, học trò đến học rất đông.
Trong số học trò có Lê Tăng Quýnh rất quý thầy và thông cảm cho tình cảnh éo le, nỗi nhà neo đơn của thầy, đã đề nghị gia đình gả cô em gái út thứ năm của mình cho Nguyễn Đình Chiểu tên là Lê Thị Điền, người làng Thanh Ba, huyện Phước Lộc, quận Cần Giuộc, tỉnh Gia Định. Ông cưới vợ vào khoảng năm 1854, ông vẫn tiếp tục dạy học, làm thuốc, sống thanh bạch cùng sự quý mến của môn sư và nhân dân. Chính thời gian này, Nguyễn Đình Chiểu đã sáng tác, hoàn chỉnh truyện Lục Vân Tiên và Dương Từ - Hà Mậu.
Lục Vân Tiên, tác phẩm thơ Nôm đầu tiên của ông mà bà con miền Nam rất hâm mộ. Chính vì tác phẩm Lục Vân Tiên đã toát lên được điều chủ yếu là lòng dũng cảm, trọng nghĩa, khinh tài, ghét gian ác “kiến nghĩa bất vi vô dõng dã” của người nông dân miền Nam và cũng là của mọi người dân Việt Nam. Và cũng từ tác phẩm này, miền Nam ra dời hình thức diễn xướng dân gian mới: Nói thơ Vân Tiên.
Tác phẩm Dương Từ - Hà Mậu đã được Nguyễn Đình Chiểu sửa chữa, bổ sung cho phù hợp hoàn cảnh lúc bấy giờ và hoàn chỉnh lúc ẩn lánh tại Cần Giuộc. Đây là thời kỳ khẳng định tư tưởng yêu nước, yêu dân, tư tưởng nhân nghĩa và như một bộ phận của triết lý nhân sinh của ông.
Đến năm 1858, sau khi chiếm Đà Nẵng thất bại, đầu năm 1859, giặc Pháp đánh chiếm Gia Định, Nguyễn Đình Chiểu chạy về quê vợ ở Cần Giuộc. Cũng tại nơi đây, Nguyễn Đình Chiểu đã sáng tác áng văn bất hủ “Văn Tế Nghĩa Sĩ Cần Giuộc”, ngợi ca chiến công anh hùng của người “dân ấp, dân lân” trong trận tấn công đồn Tây Dương, mà người bạn đồng khoa với ông là Đỗ Trình Thoại đã hy sinh cùng với 27 nghĩa binh khác.
“...Hỏa mai đánh bằng rơm con cúi, cũng đốt xong nhà dạy đạo kia,
Gươm đen dùng bằng lưỡi dao phay, cũng chém rớt đầu quan hai nọ.
...Đoái sông Cần Giuộc cỏ cây mấy dặm sầu giăng
Nhìn chợ Trường Bình già trẻ hai hàng lụy nhỏ
... thác mà trả nước non rồi nợ, danh thơm đồn sáu tỉnh chúng đều khen,
Thác mà ưng đình miếu để thờ, tiếng hay trải muôn đời ai cũng mộ”.
Năm 1862, ba tỉnh miền Đông rơi vào tay giặc Pháp, Cần Giuộc bị giặc chiếm nốt, Nguyễn Đình Chiểu không thể sống trong vùng giặc chiếm đóng đã tỏ rõ thái độ:
“Bờ cõi xưa đã chia khác trước
Nắng sương nay há đội trời chúng”.
Nguyễn Đình Chiểu đã cùng với gia đình xuôi thuyền về thôn An Bình Đông, tổng Bảo An, huyện Bảo An, phủ Hoằng Trị (nay là xã An Đức, huyện Ba Tri, tỉnh Bến Tre). Nguyễn Đình Chiểu ở trong một ngôi nhà lá đơn sơ, nay thuộc thị trấn Ba Tri. Tại đây, ông tiếp tục dạy học, bốc thuốc chữa bệnh cho dân, đồng thời giữ mối liên hệ chặt chẽ với các sĩ phu yêu nước như: Phan Văn Trị, Nguyễn Thông, và các lực lượng khởi nghĩa. Nguyễn Đình Chiểu thường xuyên bàn mưu cơ chiến lược với Trương Định. Trương Định vẫn coi ông là người tham mưu của mình. Khi Trương Định hy sinh (19/8/1864), Nguyễn Đình Chiểu vô cùng đau xót đã làm bài văn tế và mười bài thơ liên hoàn điếu vị anh hùng vì nước hy sinh:
“.....Trong Nam tên họ nổi như cồn
Mấy trận Gò Công nức tiếng đồn
Dấu đạn hãy rêm tàu bạch quỷ
Hơi gương thêm rạng thế hoàng môn
Ngọn cờ ứng nghĩa trời chưa bẻ
Cái ấn Bình Tây đất vội chôn
Nỡ khiến anh hùng rơi giọt lụy
Lâm râm ba chữ điếu linh hồn....”
Những ngày về Bến Tre, Cử Trị thường đến thăm viếng Nguyễn Đình Chiểu. Giữa 2 ông chẳng những có sự ràng buộc với nhau về tình bạn chiến đấu, mà còn có mối duyên thơ. Trong câu chuyện qua lại giữa Nguyễn Đình Chiểu và Cử Trị, hai ông thường nhắc đến Tôn Thọ Tường, một tên lợi dụng văn chương để làm bình phong che đậy bộ mặt bán nước - với tất cả giọng khinh bỉ.
Đến tháng 11-1867, trong cuộc khởi nghĩa của Phan Liêm, Phan Tôn (con trai Phan Thanh Giản) và Phan Tòng, Nguyễn Đình Chiểu đã góp phần bàn mưu lược và khi Phan Tòng anh dũng hy sinh tại Gò Trụi, Giồng Gạch (1868) ông đã làm thơ điếu, hết lòng ca ngợi khí tiết anh hùng của người chiến sĩ ở Bình Đông:
“.....Làm người trung nghĩa đáng bia son
Đứng giữa càn khôn tiếng chẳng mòn
Cơm áo đền bồi ơn đất nước
Râu mày giữ vẹn phận tôi con
Tinh thần hai chữ phao sương tuyết
Khí phách ngàn thu rỡ núi non
Cảm chuyện ngựa Hồ chim Việt cũ
Lòng đây tưởng đó mất như còn”
Thực dân Pháp quỷ quyệt, vốn biết Nguyễn Đình Chiểu có uy tín rất cao trong nhân dân, chúng tìm mọi cách để mua chuộc, dụ dỗ. Năm 1883, tên Misen Bông-Sông (Michel Ponchon), Chánh Tham biện Bến Tre lúc bấy giờ đã nhiều lần đến tận nhà Nguyễn Đình Chiểu giở nhiều thủ đoạn mua chuộc, nhưng Nguyễn Đình Chiểu cáo bệnh không tiếp, khi bất đắc dĩ phải tiếp thì giả điếc không nghe. Có lần tên Bông-Sông đến tận nơi Nguyễn Đình Chiểu nằm, nhờ Lê Quang Hiền (sau này làm đốc phủ sứ) làm thông ngôn ân cần hỏi han và hứa sẽ trả lại phần đất ở làng Tân Thới cho Nguyễn Đình Chiểu, nhưng Nguyễn Đình Chiểu lạnh nhạt trả lời: “Nước chung đã mất, đất riêng còn có được sao?” Nguyễn Đình Chiểu cũng thẳng thắn từ chối mọi thứ phụ cấp của thực dân bất kỳ hình thức nào.
Khi tên Chánh Tham biện hỏi ý muốn riêng, Nguyễn Đình Chiểu đáp ngay: Muốn tế vong hồn nghĩa sĩ Lục tỉnh. Bông-sông đồng ý hứa sẽ tổ chức. Nhưng liền sau đó, không đợi tên Chánh Tham biện định ngày, cử người tham dự, Nguyễn Đình Chiểu đã tổ chức lễ tế tại chợ Ba Tri. Ông đọc văn tế, đông đảo người nghe xúc động không cầm được nước mắt.
Do lòng yêu quê hương, đất nước nồng nàn, ghét cay ghét đắng bọn cướp nước và bán nước, dù đôi mắt bị mù lòa, Nguyễn Đình Chiểu vẫn làm được nhiều thơ, văn tế, góp phần không nhỏ vào việc cổ vũ, động viên nhân dân chiến đấu chống thực dân Pháp. Thơ văn của Nguyễn Đình Chiểu mang tính thời sự, tính chiến đấu sôi nổi. Ông đã vạch trần tội ác của giặc, của bọn tay sai, nói lên ước mơ nước nhà được giải phóng; nói lên lòng căm thù vô hạn của quần chúng nhân dân đối với kẻ thù xâm lược. Nó củng cố, làm sống lại tinh thần yêu nước bất khuất trong tâm trí của quần chúng, qua đó dấy lên phong trào kháng Pháp oanh liệt và bền bỉ của nhân dân Nam Bộ suốt cả thời gian dài sau này. Những tác phẩm này cùng với Lục Vân Tiên đã trở thành tài sản văn học quý giá của Nhân dân ta.
Năm 1888, sức khỏe cụ Nguyễn Đình Chiểu yếu dần và trút hơi thở cuối cùng vào ngày 03/7/1888, trên mảnh đất mà ông chọn để sinh sống trong giai đoạn cuối đời - hơn một phần tư thế kỷ. Theo lời truyền lại của nhân dân, đám tang của cụ di qua cánh đồng An Bình Đông trắng xóa khăn tang của cháu con, môn đệ, đông đảo quần chúng nhân dân mến mộ tài đức của cụ. Hiện nay, mộ Cụ Nguyễn Đình Chiểu thuộc ấp Giồng Cụt, xã An Đức, huyện Ba Tri, tỉnh Bến Tre.
Năm 1990, nhân kỷ niệm 102 năm ngày mất Nhà thơ yêu nước Nguyễn Đình Chiểu, Khu di tích Đền thờ đã được Bộ Văn hóa - Thông tin công nhận là di tích lịch sử cấp quốc gia. Đến năm 2000, tỉnh Bến Tre đã cho mở rộng, xây dựng đền thờ mới, có diện tích 13.000m2. Ngày 22/12/2016, Thủ tướng Chính phủ ký Quyết định số 2499/QĐ-TTg xếp hạng Di tích Quốc gia đặc biệt Di tích lịch sử Mộ và Khu lưu niệm Nguyễn Đình Chiểu. Đây là một trong hai di tích đầu tiên của tỉnh Bến Tre được đón nhận là di tích quốc gia đặc biệt. Đền thờ hình tròn với 3 tầng mái tượng trưng cho 3 tầng trí thức: nhà giáo, nhà thơ và thầy thuốc.
Tại kỳ họp lần thứ 41 của Đại hội đồng Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa Liên hợp quốc (UNESCO, diễn ra từ ngày 9 đến 24/11/2021 tại Paris, Pháp), đã chính thức thông qua hồ sơ khoa học Danh nhân Nguyễn Đình Chiểu của Việt Nam trong danh sách các danh nhân văn hóa và sự kiện lịch sử có tầm vóc quốc tế niên khóa 2022 - 2023.
UNESCO khẳng định: “Nguyễn Đình Chiểu là một nhà văn hóa, nhà thơ lớn của dân tộc Việt Nam; tấm gương vượt qua nghịch cảnh và theo đuổi lý tưởng học tập suốt đời”. Ngoài sáng tác thơ văn, ông còn là một nhà giáo được người đời quý mến về tài năng, đức độ. Trọn đời dốc lòng dạy dỗ, truyền thụ cho môn sinh đạo làm người, đạo lý truyền thống của dân tộc. Điều đáng khâm phục nữa là khi bị mù, Nguyễn Đình Chiểu mới học làm thuốc và trở thành một thầy thuốc giỏi, một lương y tinh thông về y lý phương Đông và y lý Việt Nam. Có thể nói, trên thế giới hiếm có danh nhân nào đạt trên cả 3 lĩnh vực đồ sộ như Nguyễn Đình Chiểu: Thơ văn, Thầy giáo, Thầy thuốc.
Tại Lễ kỷ niệm 200 năm Ngày sinh Danh nhân Nguyễn Đình Chiểu (01/7/1822 - 01/7/2022), gắn với nhiều hoạt động đặc biệt về sự kiện này, tỉnh Bến Tre đã phối hợp với bộ, ngành Trung ương long trọng tổ chức lễ vinh danh Danh nhân văn hóa thế giới Nguyễn Đình Chiểu.
Nói đến Danh nhân văn hóa Nguyễn Đình Chiểu là nói đến 2 câu thơ:
“Chở bao nhiêu đạo thuyền không khẳm
Đâm mấy thằng gian bút chẳng tà…”
Hai câu thơ có thể xem như một lời tuyên ngôn nghệ thuật bất hủ, thể hiện rất rõ tư tưởng của Nguyễn Đình Chiểu. Giá trị lớn mà Nguyễn Đình Chiểu để lại đó chính là những ánh hào quang tư tưởng chiếu tỏa từ những tác phẩm của ông đã được kết tụ lại như những viên ngọc quý. Đó là đức nhân nghĩa, yêu nước của ông, kết tinh của nguyện vọng và ý chí của những người lao động đã từng hi sinh xương máu để dựng nước và giữ nước, ước mơ vươn tới một xã hội công bằng và nhân đạo. Âm vang từ những áng thơ, văn giàu “chất thép” của Cụ Nguyễn Đình Chiểu trở thành niềm cảm hứng cho những thi sĩ - chiến sĩ, các thế hệ mai sau.
Tư tưởng nhân nghĩa, tư tưởng yêu nước của Nguyễn Đình Chiểu là tư tưởng tiến bộ và cách mạng, đại diện cho những truyền thống tốt đẹp của dân tộc, cho ý thức kiên cường và tự giác của nhân dân trong thời đại mà tư tưởng Việt Nam chưa được tiếp xúc với những tư tưởng cách mạng lớn của thế giới và nhất là tư tưởng của giai cấp vô sản. Trải qua những thăng trầm của đất nước, các biến cố của lịch sử, nhưng tư tưởng của Nguyễn Đình Chiểu vẫn soi sáng cho thế hệ cháu con tiếp bước. Nhân dân Ba Tri tự hào được sinh sống trên mảnh đất giàu truyền thống văn hóa, mảnh đất Địa linh nhân kiệt, mảnh đất đã gắn bó cuộc đời và sự nghiệp của Nhà thơ yêu nước Nguyễn Đình Chiểu. Vì vậy, Ba Tri còn có tên gọi là quê hương Nguyễn Đình Chiểu.
Càng tự hào về quê hương, thì mỗi người dân cần phải thấy rõ trách nhiệm trong việc gìn giữ và phát huy những giá trị truyền thống văn hóa tốt đẹp, đó là truyền thống yêu nước, thương dân, tận tụy phục vụ Nhân dân, trọng đạo nghĩa, đấu tranh phê phán những quan điểm sai trái đi ngược lại lợi ích của Nhân dân.
Mỗi cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức, lực lượng vũ trang, nhà giáo, đội ngũ thầy thuốc và Nhân dân huyện nhà noi theo tấm gương, đạo đức trong sáng, lối sống giản dị của Cụ Nguyễn Đình Chiểu; có tinh thần, trách nhiệm cao trong thực hiện nhiệm vụ được phân công, luôn rèn luyện và phấn đấu, sống gắn bó với quần chúng Nhân dân, thể hiện rõ bản lĩnh, ý chí, vượt khó đi lên, luôn đề cao cảnh giác, đấu tranh ngăn chặn, làm thất bại mọi âm mưu và hành động chống phá của các thế lực thù địch, xây dựng quê hương ngày càng giàu đẹp, văn minh, góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Ban Tuyên giáo Huyện ủy Ba Tri
Link nội dung: https://mozart.edu.vn/nguyen-dinh-chieu-ben-tre-a54888.html